Câu Chuyện Cuộc ĐờiLịch Sử

Trâu Kỵ lấy nhạc luận đạo, mượn đàn can vua

Trâu Kỵ lấy nhạc luận đạo, mượn đàn can vua
Trâu Kỵ lấy nhạc luận đạo, mượn đàn can vua

Trong dòng chảy lịch sử, không hiếm những bậc hiền sĩ chọn cách can gián quân vương bằng lời lẽ trực diện. Nhưng có những người lại khéo léo mượn hình ảnh, ẩn dụ để chạm đến tâm can nhà vua. Đó là nghệ thuật thuyết phục vừa mềm mại vừa thâm sâu, không chỉ làm rung động lòng người cầm quyền, mà còn để lại cho hậu thế một bài học trị quốc. Câu chuyện Trâu Kỵ lấy tiếng đàn mà can Tề Uy Vương chính là một minh chứng điển hình.

Tề Uy Vương từ khi lên ngôi, say đắm tửu sắc, lại ham mê âm nhạc, không còn nghĩ gì đến quốc chính. Trong chín năm liền, các nước Hàn, Ngụy, Lỗ, Triệu đều đem quân sang đánh, tướng sĩ Tề ở ngoài biên thùy thường liên tiếp bại trận.

Một hôm, có người thư sinh xin vào yết kiến. Ông tự xưng họ Trâu, tên là Kỵ, vốn người bản quốc, biết gảy đàn cầm. Nghe tiếng Tề Uy Vương thích âm nhạc, Trâu Kỵ tìm đến. Vương liền cho triệu vào, mời ngồi, sai đặt ghế trước mặt, rồi đưa cây đàn cầm ra.

Trâu Kỵ lên dây đàn, nhưng lại không gảy.

2 8
“Cầm” tức là “cấm”, nghĩa là cấm chỉ những sự dâm tà thì mới giữ được chính đạo. Ảnh minh họa.

Uy Vương hỏi rằng:

– Tiên sinh đã là người khéo gảy đàn cầm thì nên cho ta nghe một bài. Nay tiên sinh lên dây mà không gảy, dễ thường cái đàn này không được tốt chăng? Hay tiên sinh có ý chê ta không biết nghe đàn chăng?

Trâu Kỵ đặt cây đàn xuống, nghiêm nét mặt đáp:

– Tôi biết là biết cầm lý, còn như tiếng chỉ đường tơ là việc của bọn nhạc công. Tôi dẫu biết cũng không đáng gảy hầu Đại Vương làm gì.

Uy Vương nói:

– Cầm lý thế nào? Xin tiên sinh cho nghe.

Trâu Kỵ nói:

– “Cầm” tức là “cấm”, nghĩa là cấm chỉ những sự dâm tà thì mới giữ được chính đạo. Vua Phục Hi đời xưa chế ra đàn cầm, đàn cầm có năm dây: dây lớn là vua, dây nhỏ là bề tôi. Đến đời Văn Vương và Vũ Vương, mỗi ngài lại thêm một dây nữa để hợp cái tình ý vua tôi. Xem thế đủ biết, vua tôi có tương đắc nhau thì chính lệnh mới được hòa hợp, cái đạo trị nước cũng chẳng qua như thế mà thôi.

Uy Vương nói:

– Tiên sinh nói phải lắm! Nhưng tiên sinh đã biết cầm lý thì tất biết cầm âm, xin tiên sinh hãy thử gảy chơi một khúc.

Trâu Kỵ nói:

– Tôi học đàn thì phải biết cái phép chơi đàn; Đại Vương lo việc nước, há lại không biết cái đạo trị nước hay sao? Nay Đại Vương bỏ nước mà không trị, có khác gì tôi ôm đàn mà không gảy hay không? Tôi ôm đàn mà không gảy thì Đại Vương không được thỏa lòng, thế thì Đại Vương bỏ nước mà không trị, chắc là muôn dân cũng không được thỏa lòng vậy!

Uy Vương ngạc nhiên, nói rằng:

– Thế là tiên sinh mượn cây đàn để can ta đó! Ta đã hiểu ý rồi.

Vương bèn mời Trâu Kỵ lưu lại ở hữu thất. Hôm sau, sau khi tắm gội sạch sẽ, Uy Vương lại triệu ông vào bàn việc nước. Trâu Kỵ khuyên tiết bớt tửu sắc, tin dùng hiền thần mà trừ bỏ gian nịnh, lại luyện tập quân sĩ để mưu nghiệp bá vương. Uy Vương nghe theo, lập tức phong Trâu Kỵ làm tướng quốc.

1 11
Trâu Kỵ. Ảnh minh họa.

Bấy giờ có biện sĩ Thuần Vu Khôn, thấy Trâu Kỵ chỉ nói vài câu mà được làm tướng quốc, trong lòng không phục, bèn đem vây cánh đến yết kiến. Trâu Kỵ tiếp đãi rất lễ phép, còn Thuần Vu Khôn thì kiêu căng, nghiễm nhiên ngồi ghế trên, nói:

– Tôi có thiển nghĩ được mấy điều, muốn giãi bày để quan tướng quốc nghe, chẳng biết có nên không?

Trâu Kỵ nói:

– Xin cứ cho nghe.

Thuần Vu Khôn nói:

– Con không lìa mẹ, vợ không lìa chồng.

Trâu Kỵ nói:

– Xin vâng! Từ nay chúng tôi không dám rời bên cạnh vua.

Thuần Vu Khôn lại nói:

– Dùng gỗ cứng làm bánh xe lại bôi thêm mỡ trơn, thế thì trơn lắm rồi; nhưng nếu làm cái lỗ vuông thì cũng không thể nào mà chuyển vận được.

Trâu Kỵ nói:

– Xin vâng! Tôi không dám làm điều gì trái nhân tình.

Thuần Vu Khôn lại nói:

– Cán cung dẫu cứng đến đâu cũng có lúc trễ; các dòng nước chảy ra bể, tự nhiên mà hợp.

Trâu Kỵ nói:

– Xin vâng! Từ nay tôi phải yêu mến muôn dân.

Thuần Vu Khôn lại nói:

– Áo cầu lông chồn dẫu nát, không nên đem da chó mà vá vào.

Trâu Kỵ nói:

– Xin vâng! Tôi xin kén chọn người giỏi mà dùng, không dám cho kẻ bất tài lẫn vào đó.

Thuần Vu Khôn nói:

– Trục bánh xe không so sánh từng phân từng thốn thì không dùng được; cầm sắt không so sánh dây hoãn dây cấp thì không thành luật được.

Trâu Kỵ nói:

– Xin vâng! Tôi xin sửa soạn pháp luật để giám sát những kẻ gian.

Nghe đến đó, Thuần Vu Khôn nín lặng, sụp lạy hai lạy rồi ra. Ra đến cửa, môn đồ hỏi:

– Lúc tiên sinh mới vào yết kiến quan tướng quốc thì sao tiên sinh đắc ý thế, mà đến lúc lui ra thì sao tiên sinh lại chịu khuất mà sụp lạy như vậy?

Thuần Vu Khôn đáp:

– Ta mới ngỏ ý thử năm điều, quan tướng quốc đều hiểu ý ta mà ứng khẩu trả lời ngay được. Thế là bậc đại tài, ta không thể theo kịp.

Từ đó, các biện sĩ nghe tiếng Trâu Kỵ, không ai dám đến nước Tề nữa. Còn ông, cũng nghe lời Thuần Vu Khôn mà hết lòng lo việc chính trị, thường dò xét trong hàng quan ấp để xem ai giỏi, ai không giỏi.

Một khúc đàn không gảy, một lời can gián thẳng thắn mà thâm thúy, đủ làm chuyển đổi một quân vương đang say đắm tửu sắc thành người biết chăm lo chính sự. Ở đây, nhạc không chỉ là âm thanh giải trí, mà là biểu tượng cho kỷ cương, cho đạo vua tôi hòa hợp. Người xưa mượn nhạc để luận đạo, mượn âm luật để nói phép trị nước. Nếu âm luật sai lệch thì khúc nhạc trở nên hỗn loạn; cũng như nếu vua bỏ đạo chính thì lòng dân sẽ rối loạn.

Ngày nay đọc lại, ta mới thấy sự sâu xa: trong mọi công việc lớn nhỏ, nếu người đứng đầu biết tiết chế dục vọng, lắng nghe hiền tài, đặt lợi ích chung lên trên thì tự nhiên chính sự sẽ ổn định, lòng dân an hòa. Bài học từ tiếng đàn Trâu Kỵ không chỉ dành cho một bậc quân vương xa xưa, mà còn là lời nhắc nhở muôn đời cho những ai gánh vác trách nhiệm trước cộng đồng.

Khai Tâm biên tập

Xem thêm

Theo vandieuhay

Gửi phản hồi