THỜI SỰ

Đôi chút suy ngẫm

Việt Nam là một đất nước nằm ở khu vực hành lang bão nhiệt đới Đông Á – Đông Nam Á. Đây là nơi mà mỗi năm, có ít nhất hàng chục cơn bão và áp thấp nhiệt đới hình thành và quần thảo, gây ít nhiều thiệt hại cho nền kinh tế và đời sống xã hội của các quốc gia nằm trong khu vực này. Thiên tai là một phần không thể tách rời của hoàn cảnh tự nhiên và con người không thể nào ngăn chặn được những thảm họa tàn khốc như bão lũ, động đất, sóng thần… Có chăng thì nhân loại chỉ có thể trang bị cho mình những biện pháp ứng phó và gia giảm thiệt hại gây ra bởi các sự kiện thảm họa thiên nhiên này.

Vừa mới đây, siêu bão nhiệt đới Yagi đã đi qua và tàn phá nhiều quốc gia ở khu vực hành lang bão nhiệt đới Đông Á – Đông Nam Á như Philippines, Trung Hoa Đại Lục, Đài Loan, và thiệt hại nặng nề nhất là Việt Nam. Cơn siêu bão này xuất hiện vào đầu tháng 9, tháng khởi điểm cho mùa bão lũ của khu vực nhưng đã để lại hậu quả tàn khốc và gây ra thảm cảnh cho những nơi mà nó đi qua. Điều đáng nói ở đây là Yagi sẽ không phải là một trường hợp cá biệt, một siêu bão hiếm gặp “trăm năm mới có một lần”, mà nó chính là hệ quả của việc các cơn bão dữ ở cả Thái Bình Dương và Đại Tây Dương đang dần dần tăng cấp độ và sức tàn phá. Nguyên nhân sâu xa của điều này chính là hiện tượng biến đổi khí hậu và nóng lên toàn cầu hiện nay.

Khí hậu thay đổi không chỉ đơn thuần là việc trời hè sẽ nóng hơn, mưa sẽ nhiều hơn, mùa đông sẽ bớt lạnh hơn. Biến đổi khí hậu còn là một quá trình mà các kiểu mẫu thời tiết bình thường sẽ thay đổi theo hướng khó lường hơn, cực đoan hơn. Chẳng hặn, nhiệt độ trung bình của không khí và bề mặt nước biển sẽ tăng lên một hay hai độ so với những con số được đo lường ở cùng một nơi, cùng một thời điểm trong năm ở cách đây 25 hoặc 30 năm. Một hay hai độ C nghe có vẻ như không đáng kể, nhưng chỉ bấy nhiêu cũng đủ để thay đổi tính chất của các kiểu mẫu thời tiết thường thấy. Chẳng hạn, lượng nước bốc hơi sẽ nhiều hơn do nhiệt độ tăng, dẫn đến việc những cơn mưa sẽ có lượng nước lớn hơn nhiều. Khi điều này xảy ra, những thành thị có hệ thống thoát nước cũ kỹ, lạc hậu sẽ chịu cảnh ngập nước vì mạng lưới cống rãnh và kênh đào sẽ không thể điều tiết hết lượng nước khổng lồ từ trên trời rơi xuống. Một hệ quả khác nữa là việc các cơn áp thấp nhiệt đới được tiếp thêm nhiều năng lượng từ nhiệt độ không khí và bề mặt nước biển, từ đó tích tụ thêm nhiều năng lượng và tăng vận tốc di chuyển, tăng phạm vi ảnh hưởng, cũng như mức độ tàn phá.

Biến đổi khí hậu không gây thiệt hại thảm khốc một cách đơn lẻ, riêng biệt. Các hiện tượng thời tiết cực đoan còn kết hợp với những hoạt động tàn phá môi trường khác của con người như phá rừng, lấn chiếm các kênh rạch, sông ngòi, từ đó dẫn đến những thảm họa đi kèm mưa bão như sạt lở đất, lũ cuốn, lũ quét, ngập lụt… Ngoài ra, sự thiếu chuẩn bị đầy đủ các kịch bản để ứng phó thảm họa cũng là một nguyên nhân khiến cho hậu quả của các đợt thiên tai trở nên trầm trọng hơn. Minh chứng cho điều này đang được thể hiện rõ qua việc cơn bão Yagi đã đi qua nhưng thiệt hại nhân mạng và tài sản ở miền Bắc Việt Nam vẫn đang gia tăng chưa ngừng lại. Điều đáng nói là thái độ của số đông khi đối mặt với thảm họa tự nhiên và nhân đạo. Trước khi bão đổ bộ, hầu hết người dân ở miền Bắc Việt Nam vẫn khá thờ ơ và dửng dưng. Họ thản nhiên cười đùa, coi nhẹ những thông tin thời tiết đã được các cơ quan khí tượng quốc tế cảnh báo. Sự thiếu hiểu biết chính là nguyên nhân sâu xa cho việc “nước đến chân mới nhảy”. Nếu chúng ta nhìn qua 2 nước kế cạnh là Philippines và Trung Hoa Đại Lục, chúng ta sẽ thấy việc họ có kinh nghiệm và kế hoạch ứng phó với bão Yagi rất tốt với mức thiệt hại về người được hạn chế đến mức tối thiểu. Là các quốc gia có nhiều kinh nghiệm ứng phó với bão lũ hằng năm, họ đã chuẩn bị chu đáo để có thể ứng phó tốt nhất cho các tình huống thảm họa có thể xảy ra. Còn Việt Nam, dù cũng chịu sự ảnh hưởng của bão tố hằng năm, nhưng có vẻ như việc mỗi năm bão thường đổ bộ vào khu vực miền Trung đã khiến cho những địa phương khác có phần lơ là trước các nhiệm vụ chuẩn bị cho việc ứng phó thiên tai.

Các đập thủy điện hiện hành của Việt Nam cũng có thể được xem là những quả bom nổ chậm khi đất nước này nằm trong nhóm chịu ảnh hưởng trầm trọng nhất của quá trình biến đổi khí hậu. Với việc bão lũ và ngập lụt ngày càng trở nên trầm trọng và xảy ra dồn dập hơn, câu hỏi là liệu những đập thủy điện này có được thiết kế với dự tính để có thể chịu được việc lượng nước tăng cao hơn 30%, 50%, 75%, hay 100% so với ước tính ban đầu? Việc đảm bảo an toàn cho dân sinh nằm trong hành lang xả lũ của các đập thủy điện là vô cùng quan trọng, bởi vì các đập này thường được xây dựng mang tính liên hoàn, nối tiếp nhau trên lưu vực của cùng một hệ thống sông. Khi đập đầu nguồn có sự cố, hiệu ứng domino chắc chắn sẽ xảy đến và hệ quả sẽ càng khôn lường.

Người Việt có thói quen lạc quan, điều đó là tốt. Nhưng khi việc lạc quan trở nên thái quá, nó sẽ hình thành tâm lý chủ quan và tình trạng thiếu hiểu biết. Với việc số đông mặt bằng xã hội bị lười suy nghĩ, tư duy an phận và không thích cập nhật kiến thức đang chiếm ưu thế, việc trang bị những hiểu biết cần thiết để đối phó với những thay đổi hệ trọng của cuộc sống có vẻ như vẫn là một điều xa xỉ. Giá trị của sự tri thức, của sự hiểu biết nằm ở chỗ nó giúp con người tiếp nhận và xử lý thông tin một cách hiệu quả hơn và có thể đưa ra những quyết định sáng suốt hơn. Ví dụ như người Nhật, vốn sống trong môi trường có nhiều thiên tai như động đất, sóng thần, nên từ nhỏ họ đã được huấn luyện để biết cách xử lý đúng trong những tình huống khẩn cấp. Việc dạy dỗ này không chỉ đơn thuần đến từ nhà trường, mà còn từ gia đình và xã hội. Thế hệ trước với nhiều hiểu biết truyền đạt cho lớp kế cận, từ đó dẫn đến sự kế thừa về hiểu biết. Còn với xã hội của Việt Nam hiện nay, khi mà bản thân những người lớn còn chưa có nổi một vốn kiến thức vững vàng thì làm sao họ có thể truyền đạt điều đó cho con em họ?

Leave a Reply