“Miệng là cửa của họa – phước”: 11 điều giữ phước ngăn họa
“Miệng là cửa của họa – phước”. Bạn đóng cánh cửa này lại thì phước đều được giữ lại, họa cũng không chiêu cảm đến được, giữ lại toàn là phước, họa không chiêu cảm đến, tốt biết bao!
Vì sao lại phải tránh lỗi từ miệng? Vì sao Cư sĩ Hoàng có thể không nói chuyện thì được vãng sinh? Từ một cuốn sổ tay nhỏ “Vãng Sinh Ký của Cư sĩ Hoàng Trung Xương” có thể liệt kê mười một điều lợi ích khi không nói chuyện của ông:
1 . “Khéo giữ khẩu nghiệp, không nói lỗi người”, bản thân cố gắng hết sức tu tốt thập thiện nghiệp, tích lũy phước đức làm tư lương để vãng sanh. Đồng thời có thể phòng ngừa sự tiêu hao một ít phước báo đã vất vả tu hành và tích lũy từ lời nói, cũng có thể ngăn chặn những phiền phức và tai họa từ lời nói sai lầm gây ra, ở một mức độ cao hơn là làm đoạn tuyệt nghiệp nhân và nghiệp duyên trên con đường bồ đề.
2 . Ngạn ngữ có câu “Người tâm bình khí hòa không nói, nước phẳng lặng chẳng trôi”, trong “Kinh Dịch” cũng nói “người lương thiện ít nói”. Phàm phu thích nói chuyện phiếm tạp tâm, kỳ thực là do phiền não tập khí tham, sân, si, mạn trong tâm quá nặng, không nói chuyện thì cảm thấy khó chịu, cứ phải tìm đề tài để tiêu khiển, người quá ưa thích nói chuyện thật sự là tâm không ở trong đạo. Mà còn nói lên người đó hầu như không giác ngộ, vẫn chưa thật sự sanh khởi tâm liễu thoát sanh tử, ra khỏi tam giới.
Nếu là người thật sự tu đạo, thường giữ tâm hổ thẹn, nhất định sẽ quý trọng thời gian, hết lòng hết dạ nghe kinh, đọc kinh, đọc sách, niệm Phật, lạy Phật. Lời nói của phàm phu là do phiền não tập khí dẫn dắt, khó tránh khỏi việc gây tổn hại nhiều hơn là làm lợi ích cho người khác, mà còn thiếu hụt tâm chân thành, cung kính.
Trong lời nói vô hình chung sẽ làm người khác lầm lạc, tổn thương người khác, từ nhiều xích mích nhỏ mà biến thành xung đột lớn, cuối cùng sẽ phá hoại sự hài hòa của đôi bên, vậy là phạm tội phá lục hòa kính mà bản thân vẫn không hay không biết.
3 . Có thể nâng cao công phu nhẫn nhục của chính mình. Phiền não, tập khí của phàm phu rất nặng, gặp phải việc không hài lòng hợp ý thì sẽ than phiền oán trách, thấy người không vừa mắt thì muốn đến chỉnh sửa họ, phê bình họ.
Ví dụ như thấy người khác nói chuyện quá lớn tiếng, muốn đến ngăn cản họ; thấy người khác đóng cửa mạnh tay làm phát ra tiếng động rất lớn, lại muốn đến chỉnh sửa họ; thấy người khác tiểu tiện xong không dội nước thì muốn đến phê bình họ.
Tịnh khẩu có thể tránh khỏi những lỗi lầm này, ép bản thân phải nhẫn nại mọi việc, khắc phục phiền não tập khí của chính mình, dần dần sẽ làm được “không thấy lỗi người, chỉ thấy lỗi mình”, từ từ sẽ hiểu rằng “cảnh duyên không tốt xấu, tốt xấu ở nơi tâm”, tâm dần dần không bị ngoại cảnh lay chuyển nữa.
4 . Có thể nâng cao tâm thành kính của bản thân, có thể nhận được sự gia trì lớn hơn nữa của Phật Bồ Tát. Tâm thành kính nhiều một phần thì tiêu thêm một phần tội, tăng thêm một phần phước tuệ, được Phật Bồ Tát gia trì thêm một phần. Tịnh khẩu là điều mà chư Phật Bồ Tát hoan hỷ, là biểu hiện của y giáo phụng hành. Tâm thành kính đối với Phật pháp, đối với hộ pháp, đối với chúng sanh được nâng cao lên rất nhiều so với việc không tu tịnh khẩu.
5 . Có thể nâng cao tâm cảnh giác của bản thân. Bởi vì tịnh khẩu khá là ít bị người khác quấy nhiễu, vậy thì càng có nhiều tinh thần hơn để chú ý đến khởi tâm động niệm của bản thân. Khi phiền não sanh khởi thì nhanh chóng nhận biết được, đồng thời tiêu diệt chúng, lâu dần thì phiền não cũng bị khống chế. Đồng thời cũng dễ dàng phát hiện ra khuyết điểm và lỗi lầm của bản thân thường xuyên hơn, cũng có thể nhanh chóng sửa lại.
6 . Có thể giữ được tâm thanh tịnh của bản thân khá là hiệu quả. Không nói chuyện với người khác một thời gian dài, người khác cũng sẽ không tìm mình để nói chuyện, không cần phải thường xuyên xã giao với người khác thì ít bị ảnh hưởng, sẽ có nhiều thời gian nghe kinh, đọc kinh, đọc sách hơn. Hết thảy mọi việc không nghe không hỏi, trong tâm không còn lo âu vướng mắc, tâm thường giữ được sự trong sáng, linh hoạt, tâm càng ngày càng thanh tịnh, tâm càng thanh tịnh thì càng có trí tuệ.
7 . Có thể học tập tốt hơn việc tùy duyên sống qua ngày. Bởi vì tịnh khẩu, con người không thể không thành thật, không thể không buông bỏ hết các yêu cầu và ý kiến. Việc gì hợp với ý mình thì rất tốt, không hợp với ý mình cũng rất tốt, có cũng tốt, không có cũng tốt, được cũng tốt, mất cũng tốt, dần dần sẽ học được tùy duyên sống qua ngày, đồng thời cũng không ngừng học tập cách giữ gìn tâm bình khí hòa trong các cảnh duyên thuận – nghịch, thiện – ác; lâu dần phiền não sẽ được hàng phục.
8 . Có thể buông bỏ các ân oán. Giao du với người khác, nói chuyện hợp ý thì có cảm tình, nói chuyện không hợp ý thì không tránh khỏi xảy ra xích mích, vậy thì rất dễ kết oán thù với người khác, những ân oán này sẽ sinh ra chướng ngại rất lớn đối với việc vãng sanh.
Thường xuyên tìm người khác để nói chuyện, có khi lại vô ý đắc tội người khác, nếu như rất thích nói chuyện với ai đó thì biết đâu người kia nghĩ rằng: “Sao không nói chuyện với tôi, có phải xem thường tôi không?”, cho nên cũng mắc phải lỗi làm người khác phiền não. Đồng thời cũng khiến cho bản thân mất đi tâm bình đẳng, không đối xử như nhau, không đối đãi bình đẳng với tất cả mọi người.
9 . Có thể tăng trưởng tâm khiêm tốn, tâm cung kính. Bởi vì không còn phát biểu ý kiến nữa, người khác cũng sẽ không còn hỏi mình vấn đề này vấn đề nọ; phiền não ngã mạn, tự cho mình là đúng cũng dần dần giảm bớt, mọi người sẽ không còn quan tâm nhiều đến mình. Thời gian lâu dần, sẽ cảm thấy mình là người nhỏ bé, không đáng để nhắc đến; không hay không biết thì tâm khiêm tốn, tâm cung kính đã dần dần tăng trưởng.
10 . Không cho người khác cơ hội để nói chuyện với mình, cũng giảm bớt cơ hội để người khác tạo nghiệp, đồng thời cũng có thể ngăn ngừa việc có người sanh phiền não mà viện cớ làm chướng ngại việc tu học bình thường của mình.
11 . Thật ra tịnh khẩu là đang hưởng phước thanh nhàn. Người tịnh khẩu lâu rồi sẽ cảm thấy nói chuyện là việc rất phiền phức, rất vất vả, kêu họ nói chuyện thì họ cũng sẽ cảm thấy không bằng lòng, cũng rất không tự nhiên.

Có một câu chuyện thực tế như sau về cô Trịnh Du:
Một thời gian, khi cô ấy đang tu học tại nhà, cô ấy quyết tâm không nói chuyện với ai, thậm chí còn viết một đoạn văn phát nguyện gửi cho các công nhân: “Các vị có việc gì thì gửi thư điện tử hoặc nhắn tin cho tôi. Tôi có một trợ lý, tất cả những cuộc gọi cho tôi đều được chuyển đến trợ lý hết, việc gì cũng đừng đến tìm tôi.”
Kết quả là có một ngày, chồng cô ấy nổi nóng và nói: “Em làm bộ làm tịch gì vậy? Em có đức hạnh cao thế nào mà điện thoại này không tiếp, điện thoại kia cũng không tiếp?”
Cô ấy đáp: “Em phải tu, em phải tu cho thật tốt.”
Chồng cô ấy bảo: “Em đang hiểu nhầm rồi, đây căn bản không phải gọi là tu. Tu không phải là làm những chuyện như vậy.”
Cô ấy hỏi: “Thế phải làm thế nào?”
Sau đó, cô ấy đi xuống dưới lầu, ngồi lại để phản tỉnh. Lúc ấy, ba cô ấy đến bên và nói một câu. Ngày thường, cô ấy hay chỉ dạy ba mình, khuyên ba hãy nghe Kinh nhiều, không nghe thì sẽ không có trí huệ. Thực ra, ba cô ấy từng học lớp bồi dưỡng ở Đại học Thanh Hoa, trước khi về hưu là cán bộ hành chính.
Hôm đó, ba nói một câu khiến cô ấy rất kinh ngạc: “Lão pháp sư thường xuyên nói bốn chữ, gọi là ‘tùy duyên diệu dụng’. Con nên tùy duyên, sau đó thì mới diệu dụng được. Tiếp điện thoại cũng không trở ngại việc gì, nếu như con tâm bình khí hòa thì chẳng phải là tốt rồi sao?”
Lúc đó, cô ấy mới thốt lên: “Ba à! Sao ba lợi hại vậy? Ba nghe được câu đó ở trong Kinh nào vậy?”
Ba cô ấy đáp: “Ba quên mất rồi. Hôm đó con đang nghe, ba đi ở phía sau vô tình nghe được, cảm thấy câu này rất hay nên liền ghi nhớ.”
Trong một xã hội mà giao tiếp diễn ra không ngừng nghỉ, việc tịnh khẩu quả thực không hề dễ dàng. Nhưng nếu hiểu đúng, người tu vẫn có thể vận dụng tịnh khẩu một cách khéo léo, linh hoạt, chứ không phải cực đoan đóng kín mình với thế giới.
Từ hôm đó, cô nghe điện thoại trở lại như bình thường. Trong lòng đã không còn căng thẳng, không còn cố chấp. Mỗi cuộc gọi đến, mỗi việc phát sinh đều trở thành một cơ hội để soi lại tâm mình.
Và cô hiểu ra rằng:
Tịnh khẩu không phải là không nói, mà là nói trong tỉnh thức. Tu hành không phải là rời bỏ đời sống, mà là an trú ngay trong đời sống ấy.
Mỹ Mỹ biên tập
Xem thêm
Theo vandieuhay

