Triệu Quang Phục: thần tích mũ đâu mâu móng rồng và sự mất nước
Triệu Quang Phục, tức Triệu Việt Vương, là vị anh hùng dân tộc của nước Vạn Xuân (Đại Việt) vào thế kỷ VI, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương.
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Bản Kỷ, Cuốn thứ tư), vào năm Kỷ Tỵ (549), khi đang ẩn náu tại đầm Dạ Trạch (nay thuộc huyện Khoái Châu, Hưng Yên), Triệu Quang Phục đối mặt với tình thế hiểm nghèo trước quân Lương đông đảo. Ông khẩn thiết cầu đảo trời đất, và thần Chử Đồng Tử, một nhân vật huyền thoại cưỡi rồng vàng đã giáng lâm ban tặng móng rồng để gài lên mũ đâu mâu – một bảo vật biểu tượng cho sức mạnh thần linh và sự phù hộ của tổ tiên.
Toàn Thư chép: “Tục truyền thần trong đầm là Chử Đồng Tử, khi ấy cưỡi con rồng vàng, trút móng rồng trao cho nhà vua, bảo gài lên mũ đâu mâu mà đánh giặc.”
Triệu Quang Phục và thần tích móng rồng
Câu chuyện về móng rồng được thể hiện qua các trận đánh giữa quân Vạn Xuân và quân Lương, với sự chênh lệch quân số rõ rệt, làm nổi bật phép màu từ bảo vật thần linh. Năm Nhâm Ngọ (544), Triệu Quang Phục tham gia cuộc khởi nghĩa của Lý Bí chống quân Lương do Trần Bá Tiên chỉ huy.
Với lực lượng địa phương chỉ vài nghìn người, quân ta đối đầu với hàng chục nghìn quân chính quy nhà Lương. Dù chưa có móng rồng, tinh thần bất khuất đã giúp quân Đại Việt chiến thắng, giết được tướng giặc Sử Thừa Vưu, buộc Bá Tiên rút lui tạm thời. Đây là tiền đề cho những chiến công sau này.
Đến năm Giáp Thân (545), quân Lương trở lại với 10 vạn quân, chia thành tám đạo vây kín đầm Dạ Trạch, nơi Triệu Quang Phục ẩn náu với lực lượng chỉ khoảng 1.000 đến 2.000 người. Với tỷ lệ chênh lệch 1:20, quân ta dựa vào địa hình sông nước và chiến thuật du kích, khiến quân Lương hao mòn trong năm năm, chết đói khát và hoảng loạn vì tin đồn “quỷ thần” trong đầm.
Sử chép quân ta “lai vô ảnh, khứ vô hình” (ẩn hiện như ma), giết hàng nghìn giặc mà không tổn thất lớn, thể hiện sự kiên cường và mưu lược.
Đến năm Kỷ Tỵ (549), sau khi nhận móng rồng từ thần Chử Đồng Tử, Triệu Quang Phục chuyển từ phòng thủ sang tấn công. Với lực lượng vẫn chỉ khoảng 2.000 người, đối đầu với 8-9 vạn quân Lương (sau khi đã hao hụt), quân ta bỗng nhiên “thanh thế nổi to”, đánh đâu thắng đó. Mũ đâu mâu móng rồng khiến giặc hoảng loạn, tan vỡ chạy về Tàu, Trần Bá Tiên chết trận.
Năm Đinh Sửu (557), sau khi đánh bại quân Lương, Triệu Quang Phục đối mặt với nội loạn từ Đào Lang Vương (Lý Thiên Bảo), anh của Lý Bí, người câu kết với tàn quân Lương và các bộ tộc Mường, Mán địa phương, với lực lượng hàng nghìn người. Lúc này, quân Vạn Xuân đã củng cố, ước tính 5.000-10.000 quân. Nhờ móng rồng và uy thế từ những chiến thắng trước, Triệu Quang Phục nhanh chóng đánh bại Đào Lang Vương, bắt được ông ta vào năm 571, củng cố sự thống nhất đất nước.
Mưu kế phối hôn và sự mất nước
Sau những chiến công hiển hách, Triệu Quang Phục tìm cách hòa giải với tàn dư của Đào Lang Vương bằng cách gả con gái mình, Cảo Nương, cho Nhã Lang – con trai Đào Lang Vương. Hôn sự này nhằm biến cừu thù thành thông gia, nhưng lại tuân theo tục “ở rể” của nhà Doanh Tần, khiến Nhã Lang ở lại nhà vợ thay vì đưa Cảo Nương về nhà chồng.
Điều này tạo cơ hội cho Nhã Lang tiếp cận bí mật quốc gia. Trong một lần trò chuyện, Nhã Lang khéo léo hỏi: “Cha nàng có thuật gì mà có thể làm lui được quân của cha tôi?” Cảo Nương không nghi ngờ ý định của chồng, đã tiết lộ bí mật về mũ đâu mâu móng rồng, bảo vật giúp Triệu Quang Phục bất khả chiến bại.
Nhã Lang mưu mẹo tráo đổi móng rồng thật bằng một cái giả, làm mất linh lực của bảo vật. Sau đó, anh ta viện cớ nhớ cha mẹ trở về bàn mưu với cha mình. Năm Canh Dần (570), Nhã Lang và Đào Lang Vương đánh úp khiến Triệu Quang Phục thất bại, đất nước tạm thời rơi vào tay kẻ thù. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư bình luận: “Tiếc thay quá yêu con gái, để gây nên cái vạ chàng rể!”
Vậy nên sử thần Ngô Sĩ Liên nói: “Đàn bà gọi việc lấy chồng là “quy” thì nhà chồng tức là nhà mình. Con gái vua đã gả cho Nhã Lang thì sao không cho về nhà chồng mà lại theo tục ở gửi rể của nhà Doanh Tần để đến nỗi bại vong?”
Mỹ Mỹ biên tập
Theo vandieuhay