Chuyện cũ ở Trại Tây-Trích Truyền kỳ mạn lục
“Chuyện cũ ở Trại Tây”:
“Hà Nhân, người học trò quê ở Thiên Trường, khoảng năm Thiệu Bình ngụ ở kinh sư để tòng học cụ ức Trai.
Mỗi buổi đi học, đường tất phải qua phường Khúc Giang. Trong phường có cái trại, gọi là trại Tây, dinh cơ cũ của quan Thái sư triều Trần. Ngày ngày đi qua, Hà Nhân thường thấy hai người con gái đứng ở bên trong bức tường đổ nhí nhoẻn cười đùa, hoặc hái những quả ngon, bẻ bông hoa đẹp mà ném cho Hà Nhân nữa. Lâu lâu như thế Hà Nhân không mần ngơ được, một hôm mới đứng lại trò chuyện lân la. Hai người con gái tươi cười bảo:
– Chúng em một người họ Liễu, tên gọi Nhu Nương, một người họ Đào, tên gọi Hồng Nương, nguyên là những tỳ thiếp của quan Thái sư. Từ ngày quan Thái sư qua đời, chúng em vẫn phòng thu khóa kín. Nay gặp tiết xuân tươi đẹp, chúng em muốn làm những bông hoa hướng dương, để khỏi hoài phí mất xuân quang.
Hà Nhân rủ rê hai ả đến chơi chỗ trọ của mình, chuyện trò đằm thắm. Chàng lả lơi cợt ghẹo, hai ả thẹn thò nói rằng.
– Chúng em việc xuân chưa trải, nhụy thắm còn phong, chỉ e tình hoa run rẩy, tơ liễu điên cuồng, oán lục thẹn hồng, làm giảm thú phong lưu đi mất.
Hà Nhân nói:
– Thì hãy thử thôi, tôi chẳng dám đem chuyện mây mưa làm “khó dễ” hai nàng.
Rồi tắt đèn đi nằm. Tựa ngọc kề vàng, gối vừa xô đã khoát sóng hoa đào nghiêng ngả. (anh em tự hiểu nhá) Hà Nhân giữa lúc gối chăn êm ấm, bảo hai nàng cùng làm thơ ngâm chơi”….
“Từ đó về sau, hai nàng cứ sớm đi tối đến, ngày nào cũng giống ngày nào, Hà Nhân cho là sự kỳ ngộ của đời mình, so với chuyện xưa, có thể sánh với Bùi Hàng và vượt hơn Tăng Nhụ…Gặp đêm Nguyên tiêu, người ở kinh thành kéo nhau đi chơi vui rầm rập, hai nàng mời Sinh:
– Nhà chúng em chẳng xa xăm gì mà chàng chưa hề bước chân đến, thật là đáng trách. Nay gặp lệnh tiết, chúng em muốn mời chàng quá bộ lại chơi, mong đừng chê xa mà từ chối.
Nhân vui vẻ bằng lòng ngay. Khi đến trại Tây, qua mấy lần rào, quanh một đoạn tường, đi ước mấy chục trượng thì đến một cái ao sen; hết ao lại là khu vườn, cây cối xanh tươi, mùi hoa thơm ngát, nhưng ở dưới bóng đêm lờ mờ, không nhận rõ được hoa gì, cây gì cả, chỉ thấy mùi hương lúc lúc thoảng tới.
Hai nàng nhìn nhau nói:
– Nhà chúng ta chật chội túi múi, chi bằng bày tiệc vui ngay ở trong vườn.
Rồi họ trải chiếu giát trúc, đốt đèn nhựa thông, bóc bánh lá hòe, rót rượu hạt hạnh, các món ăn trong tiệc đều là những món quý trọng cả. Kế đó thấy những mỹ nhân tự xưng là họ Vi, họ Lý, họ Mai, họ Dương, đây chị họ Kim, kia cô họ Thạch lục tục đến mừng và dự tiệc. Trời gần sáng, mọi người giải tán, hai nàng cũng đưa Nhân ra đến ngoài tường. Hà Nhân về đến thư phòng thì mặt trời đàng Đông đã rạng.
Sau đó vài tháng, Hà Nhân tiếp được tin nhà gửi đến kinh đô, nói cha mẹ ở nhà đã hỏi vợ cho, giục Nhân nên về mau để làm lễ cưới. Nhân bối rối quanh co, lòng rất không nỡ, hai nàng đoán biết được tình ý, bảo Nhân rằng:
– Bọn chúng em thân bồ vóc liễu, không thể cáng đáng được việc tần tảo ở gia đình. Vả ngôi chủ phụ trong nhà, tất phải là người trong nền nếp trâm anh như Tống Tử, Tề Khương, chúng em đâu dám chòi mòi đến. Chỉ mong chàng sau buổi về quê, tình cũ sẽ vấn vương không dứt, sớm dẹp lòng quyến luyến hương thổ để lại tính kế tìm hoa, sẽ xem cây liễu Hàn Hoành, vẫn chờ đợi với những cành dài ngày xưa, cây đào Thôi Hộ, vẫn chào đón những hoa cười năm ngoái. Xin chàng lưu ý, đừng vì ấp yêu duyên mới mà lại phai tình cũ, khiến chúng em thành những bông hoa vô chủ ở Giang Nam.”
Phần sau câu chuyện sẽ rất dài và chủ yếu là thơ, nên tôi sẽ tóm tắt: Sau một thời gian, Hà Nhân nhận tin cha mẹ đã định sẵn hôn sự, nhưng chàng từ chối, lấy cớ muốn chuyên tâm học hành. Dù vậy, lòng Hà Nhân vẫn hướng về hai nàng nên đã quay lại kinh thành. Hai nàng vui mừng đón tiếp, nhưng không lâu sau, cả hai báo tin rằng họ sắp phải rời xa vì “bệnh gió sương”. Đêm đó, một trận cuồng phong nổi lên, và họ biến mất.
Sáng hôm sau, Hà Nhân đến Trại Tây tìm kiếm nhưng chỉ thấy một khu vườn hoang tàn, cây cối rũ rượi. Ông lão hàng xóm nói rằng dinh Thái sư đã bỏ hoang suốt hơn 20 năm, không có ai sống ở đó. Hà Nhân giật mình nhận ra mình đã yêu hai hồn ma, và khi xem lại những chiếc hài mà hai nàng tặng, chúng liền hóa thành cánh hoa bay mất.
Chàng lập đàn cúng tế, làm văn truy điệu hai nàng. Đêm ấy, Hà Nhân mơ thấy Liễu và Đào đến cảm tạ rồi biến mất. Từ đó, chàng ôm nỗi thương nhớ khôn nguôi, lưu lại dấu ấn của một mối tình kỳ lạ giữa người và hồn hoa.
Hà Nhân về đến nhà thì hôn kỳ đã do cha mẹ định sẵn. Nhân nói với cha mẹ rằng:
-Sinh con trai muốn cho có vợ, sinh con gái muốn cho có chồng, đó vẫn là lòng của cha mẹ mà cũng là phúc của gia đình. Song con nghĩ mình dòng dõi tấn thân, mà sự học hành chưa thành danh gì cả. Nếu nay có vợ, e không khỏi vui bề chăn gối mà lãng việc sách đèn. Chi bằng việc cưới xin hãy tạm hoãn, đợi khi con đường mây nhẹ gót, thỏa nguyện bình sinh, bấy giờ hãy tìm đến tưởng cũng chưa muộn.
Cha mẹ không nỡ trái ý con, việc cưới bèn đình hoãn lại. Ở nhà chưa bao lâu, Hà Nhân vì tưởng tư hai nàng mà lúc nào cũng ủ ê rầu rĩ, bèn lại lên đường để tới kinh. Vừa đến trại Tây, đã thấy hai nàng đứng đón, tươi cười hỏi:
-Lang quân vừa cưới vợ, sao không ở nhà vui vầy duyên mới, đã vội lên đường? (Hừm, nghe cứ như trà xanh ấy nhỉ) Hà Nhân kể rõ nguyên do, hai nàng đều nức nở khen rằng:
-Lang quân thật là một người tình nghĩa, không lỗi lời ước hẹn tìm hoa. Bèn vì Hà Nhân sắm lễ, để lại đến trường cũ theo học. Nhân tuy mượn tiếng du học, nhưng bút nghiên chí nản, son phấn tình nồng. Ngày nào mới buổi xuân dương, thoắt đã trời đông tiết lạnh. Một hôm Nhân ở ngoài về, thấy hai nàng mắt đều đẫm lệ. Nhân giật mình hỏi, hai nàng đều sụt sùi giọt lệ nói rằng:
-Chúng em không may đều mắc bệnh gió sương, khí xuân chưa về, mặt hoa dễ héo, thuốc thang khó tìm, hương hồn một mảnh, chưa biết rồi sẽ trôi dạt đến nơi nào. Hà Nhân kinh ngạc:
-Anh cùng với hai em, duyên không mối lái nghĩa kết keo sơn. Cớ sao các em vội nói đến chuyện lìa tan, khiến anh lo sợ như là con chim sợ cung vậy. Nàng Liễu nói:
-Ham vui ân ái, ai ai chẳng lòng, nhưng số trời đã định kỳ về đến nơi, biết làm sao được. Rồi đây cánh rã trong bùn, hương rơi mặt đất, ba xuân cảnh sắc, thú vui biết sẽ thuộc về đâu. Hà Nhân ngao ngán buồn rầu, không sao rứt được. Nàng Đào nói:
-Người sinh ở đời như cái hoa trên cây, tươi héo có kỳ, không thể nào gượng được dù trong chốc lát. Chỉ xin chàng từ đây bồi dưỡng thân thể, chăm chỉ bút nghiên, ghép liễu thành công, xem hoa thỏa nguyện, thì chúng em dù vùi thân trong chỗ ngòi lạch cũng chẳng chút phàn nàn. Hà Nhân nói:
-Vậy thế cái kỳ tan tác còn chừng bao lâu nữa?
-Chỉ nội đêm nay thôi. Hễ lúc nào có trận gió dông nổi lên là lúc chúng em thác hóa. Chàng nếu nghĩ tình ân ái cũ, quá bộ đến trại Tây thăm viếng chúng em sẽ được ngậm cười mà về chốn suối vàng. Nhân khóc mà rằng:
-Sự thể cấp bách như vậy, cũng chẳng biết làm sao được nữa, song anh ở đất khách quê người, lưng không, túi rỗng, biết lấy gì mà đắp điếm cho hai em. Hai nàng nói:
-Thân mệnh của chúng em lả lướt như tơ, mong manh tựa lá. Sau khi thác hóa, đã có mây làm tàn, có lốc (gió) làm xe, sương trắng làm ngọc đeo, cỏ xanh làm nệm rải, than khóc đã oanh già thỏ thẻ, viếng thăm đã bướm héo vật vờ, chôn vùi có lớp rêu phong, đưa tiễn có dòng nước chảy, khói tan gió bốc không phiền phải đắp điếm gì cả. Đoạn rồi mỗi người để đôi hài cườm lại tặng Nhân và nói:
-Mất người còn chút của tin, gọi có vật này để tặng nhau trong lúc sinh ly tử biệt, sau này khi chàng ướm thử, sẽ như là chúng em còn ấp yêu ở dưới chân chàng.
Tối hôm ấy, quả nhiên hai nàng không đến. Khoảng gần nửa đêm, trời bỗng nổi cơn mưa gió dữ. Nhân đứng tựa lan can, buồn rầu ngơ ngẩn như kẻ mất hồn. Nhân sang chơi nhà ông cụ già bên láng giềng, kể lể về câu chuyện ấy. Ông già nói:
-Ôi! Cậu nói rõ chuyện chiêm bao chắc? Cái dinh cơ ấy từ khi quan Thái sư mất đi, trải hơn 20 năm nay, đã thành một nơi hoang quạnh. Mấy gian đền mốc một người quét dọn cũng không có, làm gì có nhiều cô gái họ nọ, họ kia như cậu nói. Chẳng qua đó là những hạng gái lẳng lơ dâm đãng nếu không thì là những u hồn trệ phách, hiện lên thành yêu quỷ đó thôi. Sáng hôm sau, ông già cùng Nhân đến trại Tây. Chỉ thấy nếp nhà quạnh hiu, vài ba cây đào, liễu xơ xác tơi bời, lá trút đầy vườn, tơ vương khắp giậu. Ông già trỏ bảo Nhân rằng:
-Đây chả phải là nơi cậu đến chơi ư? Chị ả họ Kim, thì đây hoa Kim tiền. Cô nàng họ Thạch, thì đây cây Thạch lựu. Đến như họ Lý, họ Vi, họ Dương, họ Mai, cũng đều nhân tên hoa mà làm họ cả. Không ngờ mấy cây hoa ấy lại biến huyễn như thế được. Hà Nhân bấy giờ mới giật mình tỉnh ngộ, tự nghĩ mình bấy lâu mê mải. Về đến nhà, Nhân lấy những chiếc hài tặng ra xem, vừa cầm trên tay, mấy chiếc hài đã thành ra những cánh hoa, bay vèo lên trên không mất. Sáng hôm sau, Nhân đem bán một cái áo, lấy tiền làm mâm cỗ bày cúng hai nàng. Đêm hôm ấy chàng chiêm bao thấy hai nàng đến tạ rằng:
– Đội ơn lang quân làm bài văn tế viếng, khiến cho thanh giá chúng em càng bội tăng lên. Cảm vì tình ấy nên chúng em về đây bái tạ.
Hà Nhân muốn lưu lại, nhưng hai nàng vụt đã bay lên trên không đi mất.