TRUYỆN XƯA

Cô đào – Những nghệ nữ xứ An Nam

Có thể nói, Cô đào hay Ả đào là những nhân vật nổi tiếng trong văn hóa Việt Nam hiện đại, khi loại hình “Hát ả đào” ngày được nhìn nhận tích cực.

Được xem là “Geisha của Việt Nam”, Cô Đào cũng như các Geisha thường bị hiểu lầm và ngộ nhận bởi những định kiến tương đối thiếu đúng đắn trong nhiều thập kĩ.

Vậy Cô đào có từ đâu? Và trên hết vì sao họ được gọi là cô đào?
.
Xuất xứ của danh xưng “Cô đào” thường có hai thuyết lớn. Thứ nhất, cứ theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào thời kỳ Lý Thái Tổ trị vì, có một ca nương họ Đào nổi tiếng trong cung đình. Cô gái này được ban thưởng rất nhiều, và nổi tiếng vì tài ca hát cũng như nhan sắc. Về sau, những cô gái ca nương xem nàng là biểu tượng “phấn đấu”, và tự gọi mình là [Đào nương; 陶娘], hay Cô đào.

Thuyết thứ hai có trong “Công dư tiệp kí” thời Lê trung hưng, lại cho rằng các Cô đào có nguồn gốc muộn hơn: “Cuối đời nhà Hồ, có người con hát họ Đào quê ở làng Đào Xá, tỉnh Hưng Yên, lập mưu giết được giặc Minh. Khi nàng chết, dân nhớ ơn lập đền thờ, gọi thôn nàng ở là thôn Ả Đào. Từ đấy những người đi hát được gọi là Ả đào”. Cứ theo “Việt sử tiêu án” thời Lê, khi ấy các con hát ngoài gọi là Ả đào, còn được gọi là [Náo nương; 鬧娘] hay [Cô Náo; 姑鬧], [Náo Hát;鬧歌]… các danh xưng.

Địa vị các Cô Đào hay những người theo nghề ca hát khá mù tịt khoảng thời Lý, Trần, nhưng sang thời Hậu Lê thì đó là cả một quá trình bấp bênh. Quan niệm thời đại Hậu Lê, ca nương con hát là hạng thấp kém, chỉ mua vui lưu lạc, và họ không thể vương lên bằng bất cứ giá nào. Đó là câu chuyện về Đào Duy Từ, do có xuất thân này mà không thể làm quan cho nhà Lê, và ông phải tìm cách xuống phía Nam, vùng đất mới nơi không bị hà khắc những quan điểm cổ hủ để tiến thân. Các con hát không biểu diễn ở cung đình vì thân phận thấp hèn, họ chỉ quanh quẩn ở các đình làng hay ca quán tại địa phương.

Vào thời nhà Nguyễn, những ghi chép chi tiết về thú chơi cô đầu là vào những năm Pháp thuộc và ở phía Bắc, với địa danh nổi nhất là phố Khâm Thiên. Cô đầu sống thành từng nhóm, trong các nhà chứa khách đến hát ả đào. Thú chơi này mang nhiều tính tao nhã hơn là trò chơi thân xác, mua vui thông thường. Và thời kỳ này họ thường được gọi là Cô đầu.
.
.
Theo Hữu Thịnh trong bài viết “Thuật ngữ về Ả đào”, từ “Cô đầu” là một từ địa phương hóa của Ả đào. Khi các Ả đào (học trò) đi hát ở các đình đám kiếm được tiền, họ thường trích ra một khoản nhỏ cho các người thầy đã có công dạy dỗ mình, số tiền đó gọi là tiền “đầu”. Người ta dùng chữ “cô” thay cho “ả” (“ả”, tiếng địa phương ở Nghệ Tĩnh cũng có nghĩa là “chị, cô”) và chữ “đầu” thay cho “đào”, vì vậy Ả đào nghĩa là Cô đầu.

Cô đầu và kép mỗi vùng có một họ riêng như: Tam, Ngân, Thông, Thiên… Tên của cô đầu là họ của giáo phường cộng với tên của mình. Ví dụ tên Thuận, họ Tam, được gọi là Tam Thuận. Họ này được xem như là họ truyền thống trong nghề. Những cô đầu thuộc những họ truyền thống gọi là cô đầu nòi. Còn các cô đầu mới vào nghề, khi còn học nghề được gọi là Xướng nhi, khi học xong mới được gọi là Ả đào hay Cô đầu. Trước khi Xướng nhi bái Cô đầu làm thầy, thường có một tục lệ gọi là lễ nhận trò, ấy là hai bên sẽ xướng với nhau 1 câu đoạn hát nào đó, tiền bối cô đầu được xướng nhi gọi là Tin nữ.

Ngày xưa, Hát cửa đền ngày xưa có lệ hát thẻ. Hát thẻ dùng để chỉ một hình thức ban thưởng cho những ả đào hát hay. Đoạn nào ả đào hát hay thì các khách nghe hát (gọi là quan viên) thưởng một thẻ. Mỗi thẻ qui định tương ứng với một số tiền, đến hết buổi hát, ả đào tổng cộng được bao nhiêu thẻ thì nhân lên mà nhận tiền thưởng. “Hát” tiếng Hán là “ca”, thẻ là “trù”, hát thẻ = ca trù. Hát ả đào được gọi là Ca trù từ đó. Ngày xưa, con các quan phủ, huyện được gọi quan viên tử. Quan viên tử có đặc ân là được miễn làm tạp dịch trong làng, sống cuộc sống phong lưu, công tử. Nhân dân xem người nghe ca trù là hạng người phong lưu, ví như quan viên tử, nên gọi người nghe ca trù là quan viên. Khi đó, các cô đầu đều được tập trung ở các gánh phường, được gọi là “Giáo phường”.

Cũng theo bài viết này, có hai dạng Cô đầu trong xã hội.

*Cô đầu thực thụ: họ mua vui cho đàn ông bằng đàn hát, nghệ thuật lành mạnh (giống như ca sĩ phòng trà ngày nay). Họ không bán dâm như nhiều người vẫn tưởng.
* Cô đầu trá hình: là một dạng gái mại dâm núp bóng cô đầu, đàn hát chỉ là để ngụy trang. Họ không biết ca hát mà chỉ hay rót rượu, thậm chí phục vụ tình dục, vì vậy họ còn được gọi là cô đầu rượu. Vì bộ phận trá hình này mà hát cô đầu mới bị nhiều người nghĩ oan, đánh đồng với mại dâm.

Những cô gái bán dâm, hay hoa mỹ hơn là “Gái bán hoa” đã có từ khá sớm, được ghi chép chính thức sớm nhất là khoảng thời Hậu Lê. Họ được gọi là “Hoa nương”, “Nàng hoa”, “Ả hoa”,…có lẽ vì ăn mặc khá sặc sỡ, và đây là những cô nàng khiến các Ả đào bị đánh đồng và khinh rẻ nhất.
.
.
Sau năm 1945, trong một thời gian khá dài sinh hoạt ca trù vốn tao nhã và sang trọng trước đây đã bị hiểu lầm và đánh đồng với các sinh hoạt thiếu lành mạnh ở một số ca quán đô thị khiến cho xã hội chối bỏ và quyết loại sinh hoạt ca trù ra khỏi đời sống văn hóa.

Ca trù đã không được nuôi dưỡng và phát triển một cách tự nhiên, không được tôn vinh đúng mức, phải chịu tồn tại thiếu sinh khí và tàn lụi. Nhiều nghệ nhân, nghệ sĩ đã phải cố quên đi nghiệp đàn hát và giấu đi lai lịch của mình.

===================
Ảnh minh họa: Đào nương, vẽ bởi Đăng Thiên

Leave a Reply